Một số bệnh thường gặp do virus gây ra trên đàn gà

Một số bệnh thường gặp do virus gây ra trên đàn gà
Một số bệnh do virus gây ra trên đàn gà đã gây thiệt hại lớn về kinh tế trong chăn nuôi gia cầm. Nhiều bệnh trong số đó gây ức chế miễn dịch, nghĩa là chúng làm suy giảm chức năng của hệ thống miễn dịch và làm cho gia cầm dễ mắc các bệnh nhiễm trùng khác, khiến cho bệnh nặng hơn và khó điều trị.

Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm (IB)

Bệnh IB do một virus corona gây ra với các kháng nguyên đa dạng. Vì thế, có rất nhiều chủng được xác định như Massachusetts, Arkansas 99, Connecticut, O72… Bệnh này thường đi kèm với các bệnh truyền nhiễm khác như bệnh nhiễm khuẩn do E. coli, do Mycoplasma gallisepticum, viêm thanh khí quản truyền nhiễm…

Bệnh do virus ở gà

Hình 1: Bệnh tích đặc trưng của viêm phế quản truyền nhiễm: (1) Thể tạng; (2) Tổn thương thận; (3) Sự hiện diện của caseum trong ống dẫn trứng với tình trạng viêm mô; (4) Biến dạng vỏ trứng với các đường kẻ dọc; (5) Viêm vòi trứng bên phải

 Nguồn: Veterinaria Digital. Pathology Atlas

Mức độ nghiêm trọng của bệnh này bị ảnh hưởng rất nhiều bởi tuổi và tình trạng miễn dịch của đàn gà, điều kiện môi trường và sự hiện diện đồng thời của các bệnh khác. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cũng phụ thuộc vào chủng hoặc biến thể của virus hiện đang lưu hành tại các trại. Các dấu hiệu lâm sàng thường được quan sát thấy là ở đường hô hấp, chẳng hạn như chảy dịch mắt và mũi, thở hổn hển và ho.  Các chủng virus IB hướng thận gây ra hiện tượng viêm nghiêm trọng (hình 1) và tổn thương mô do loạn dưỡng ở thận: Hình thành sỏi tiết niệu, viêm thận kẽ, xuất huyết và tăng đáng kể tỷ lệ chết. Trong điều kiện tự nhiên, chỉ có gà mái bị nhiễm bệnh và ở mọi lứa tuổi đều mẫn cảm. Bệnh này thậm chí còn thấy ở các đàn đã được tiêm phòng.

Có thể quan sát thấy chất nhờn trong khí quản và bọt trong túi khí trong khi khám nghiệm lâm sàng. Nếu thận bị ảnh hưởng, viêm thận và niệu quản căng hơn có thể tiến triển thành bệnh gout. Ở gà mái trong giai đoạn sau của chu kỳ sản xuất trứng, hiện tượng viêm vòi trứng bên phải và xơ hóa của mô trong vòi trứng trái là những tổn thương được quan sát thấy.

Tiêm chủng là công cụ thường được sử dụng để ngăn ngừa viêm phế quản truyền nhiễm, nhưng do đây là một loại virus có tính đột biến cao với nhiều biến thể, nên việc bảo vệ bằng tiêm chủng có thể không hoàn toàn hiệu quả. Thông thường, các biến thể virrus ở Mỹ có nguồn gốc từ virus được sử dụng trong tiêm chủng, chẳng hạn như Mass, Conn và Ark. Một vấn đề khác cần quan tâm là, khi động vật mắc bệnh, bệnh này có tác dụng ức chế miễn dịch làm giảm hiệu quả của các đợt tiêm phòng tiếp theo.

Bệnh Marek

Là bệnh gây khối u do một loại virus bạch huyết gây ra với sự hình thành các u lympho tế bào T. Ở những con gà bị bệnh, có thể quan sát thấy các khối u trong các cơ quan nội tạng, da và sự thay đổi của các dây thần kinh, đặc biệt là các vùng ngoại vi, mống mắt và da do sự xâm nhập của các tế bào bạch huyết. Hình ảnh lâm sàng có thể nhìn thấy là ảnh hưởng đến thần kinh với liệt một bên chân và cánh, cơ thể mất cân bằng, xuất hiện các khối u ở các cơ quan nội tạng khác nhau, đặc biệt là gan và lá lách, dẫn đến tiêu chảy và tử vong cao. Với những con gà bị ảnh hưởng bởi liệt vùng cổ do liên quan đến các chủng virus có độc lực cao. Ngoài những tổn thương đã được mô tả, triệu chứng teo các cơ quan lympho (tuyến ức và bursa của Fabricius) cũng được phát hiện phổ biến.

Bệnh do virus ở gà

 Hình 2: Bệnh tích do bệnh Marek: (6) bên trái: Mắt gà khỏe mạnh, bên phải: Mắt gà bị bệnh Marek; (7) Da gà bị bệnh; (8) Liệt không đối xứng do Marek’s

Tiêm phòng ngay lúc gà mới nở tại nhà máy ấp trứng là công cụ phòng ngừa được sử dụng nhiều nhất, vì bệnh này gây ra hậu quả nặng nề ở các trang trại bị ảnh hưởng. Căn cứ chủng huyết thanh (serotype) có trong trại để lựa chọn loại vaccine phù hợp. Mặc dù tiêm phòng vaccine ngăn ngừa đàn gà bị bệnh, nhưng nó không bảo vệ gia cầm chống lại sự lây nhiễm, do đó con vật vẫn là nguồn virus. Ðây là lý do tại sao các chủng vaccine có thể dễ dàng tái tổ hợp với các biến thể khác nhau.

Bệnh do virus ở gà

Hình 3: Các dấu hiệu và tổn thương do bệnh Newcastle: (9) Chứng vẹo cổ; (10) Xuất huyết trong hệ thống sinh sản do bệnh Newcastle ở gà

Bệnh Newcastle

Là một bệnh nhiễm virrus thường gây ra các dấu hiệu hô hấp cấp tính, mức độ nghiêm trọng và tỷ lệ tử vong của chúng phụ thuộc vào các biến thể có trong trang trại. Tỷ lệ tử vong có thể thay đổi 10 - 80%. Các dấu hiệu về đường hô hấp bao gồm ho, thở hổn hển và chảy nước mũi. Các dấu hiệu thường xuyên khác là ủ rủ, tiêu chảy và thay đổi về thần kinh do hệ thống thần kinh trung ương bị tổn thương, mà dẫn đến các triệu chứng đi lại từ run rẩy và co giật đến tê liệt nặng của tứ chi, cổ vẹo, đầu sưng. Trong các vết hoại tử, cũng có xung huyết và dịch tiết ở niêm mạc của đường hô hấp, cũng như các chấm xuất huyết và xuất huyết ở màng thanh dịch của hệ tiêu hóa và các mảng Peyer, lách to và tổn thương, ngoài ra còn có phù nề ở tuyến ức và bursa của Fabricius.

Các đợt bùng phát do các chủng độc lực cao của bệnh này gây ra ở nhiều nước thường liên quan đến việc tiêm chủng không đúng cách. Ðể phòng ngừa, khuyến nghị áp dụng các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt, bao gồm việc thực hiện các kế hoạch tiêm chủng kịp thời và đúng cách. Mặc dù vậy, hãy nhớ rằng virus này có đặc tính ức chế miễn dịch mạnh.

Bệnh Gumboro

Còn được gọi là bệnh bao hoạt dịch hoặc viêm bao hoạt dịch truyền nhiễm, bệnh này thường ảnh hưởng đến gia cầm 3 - 6 tuần tuổi, gây ức chế miễn dịch ở gà vì nó nhắm vào các tế bào lympho B trưởng thành trong túi Fabricius. Ở dạng cấp tính hoặc cổ điển, gà bị ủ rủ, tiêu chảy phân màu trắng, biếng ăn, xù lông và thờ ơ. Một số cá thể trong số đó có biểu hiện đột tử. Những con bị nhiễm bệnh trước tuần tuổi thứ 3 mắc bệnh thì chậm phát triển khi kết hợp với mắc các bệnh khác. Tổn thương được mô tả rõ nhất là một túi Fabricius to ra, bị xung huyết và có các vết dọc trong mô của nó. Nó chuyển từ màu trắng sang màu trắng kem. Sau vài ngày, chùm hoa bị teo đi, kích thước giảm dần và chuyển sang phù nề và hơi xám. Các tổn thương khác cũng có thể được quan sát là xuất huyết cơ (đùi, ngực), sự hiện diện của chất nhầy trong ruột và viêm thận hoặc thận hư.

Bệnh do virus ở gà

Hình 4: Tổn thương đặc trưng của bệnh Gumboro: Viêm bao hoạt dịch

Hầu hết các cơ sở sản xuất giống gà lớn ở nước ta đều thực hiện tiêm phòng vaccine Gumboro. Việc làm này rất quan trọng để ngăn ngừa bệnh, cũng như xem xét các biến thể chủ yếu trong khu vực gây ra teo nhanh chóng của túi Fabricius, khác với các biến thể cổ điển và có thể cần phải kiểm soát vaccine cụ thể.

Chiến lược phòng ngừa

Ðể ngăn ngừa các bệnh này nên tập trung vào việc nâng cao hiệu quả của vaccine và giảm thiểu tác dụng ức chế miễn dịch của các loại virus này. Theo quan điểm này, các chất tăng cường miễn dịch có thể hữu ích. Chế phẩm tăng cường miễn dịch là các hoạt chất có tác dụng kích thích hoạt động sinh lý của tế bào. Chúng hoạt động giống như một chất kích thích kích hoạt và thúc đẩy hoạt động của một số gen trong tế bào đích liên quan đến các chức năng phòng vệ của cơ thể gia cầm. Các chất tăng cường miễn dịch (Immunobooster pronutrients) kích hoạt các tế bào miễn dịch ở gia cầm để duy trì hoạt động sinh lý của chúng và do đó, giữ cho hệ thống phòng thủ của động vật ở trạng thái tối ưu.

Bệnh do virus ở gà

Việc sử dụng nó trong thức ăn hoặc nước uống với liều lượng nhỏ có thể kích hoạt hệ thống miễn dịch tự nhiên theo cách mà đàn gà sẵn sàng chống lại bất kỳ tác nhân truyền nhiễm nào gặp phải. Bên cạnh đó, các chất bổ sung miễn dịch này cải thiện phản ứng với việc tiêm phòng để có được sự bảo vệ tốt nhất chống lại các bệnh cụ thể như bệnh Gumboro hoặc Newcastle hoặc viêm phế quản truyền nhiễm ở gia cầm.

Biểu đồ dưới đây cho thấy kết quả thu được ở gà thịt được tiêm phòng bệnh Newcastle vào ngày 10 và 23. Những con gà trong nhóm đối chứng (131.480 con) không nhận được bất kỳ chất tăng cường hệ miễn dịch nào, trong khi những con gà ở nhóm thí nghiệm (56.200 con) nhận được chất tăng cường miễn dịch bổ sung ở mức 1 ml/ l từ ngày 1 - 10 và ở 0,5 ml/l từ ngày thứ 11 - 20.

Bệnh do virus ở gà

Kết quả thí nghiệm cho thấy, tỷ lệ kháng thể đối với bệnh Newcastle vào ngày 38 đã tăng 36,2% ở nhóm được bổ sung chế phẩm tăng miễn dịch, có nghĩa là phản ứng với tiêm phòng cao hơn và do đó, gia cầm được bảo vệ tốt hơn chống lại bệnh này. Việc sử dụng các chất miễn dịch bổ sung cũng có tác dụng tích cực trong việc giảm tỷ lệ tử vong.

Từ kết quả trên, các nhà khoa học khuyến cáo nên sử dụng các hoạt chất tăng cường miễn dịch cho đàn gà kết hợp cùng với việc tiêm chủng vaccine, vì các hoạt chất này giúp đàn gà cải thiện sản sinh kháng thể để đạt được mức độ bảo vệ cao hơn chống lại các bệnh. Việc sử dụng chúng giúp ngăn ngừa sự ức chế miễn dịch do các bệnh này gây ra và giảm hậu quả của chúng.